ĐỀ
CƯƠNG THẢO LUẬN
MÔN AN NINH QUỐC PHÒNG
|
Câu
1: Phân tích mục tiêu chung của Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc.
1. Khái
niệm “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”:
Chiến lược bảo vệ Tổ quốc là mưu lược xác định mục
tiêu, quy tụ lực lượng và lựa chọn giải pháp có tính khả thi, nhằm tạo nên
sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi đường lối, nhiệm vụ quốc phòng –an ninh
để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
2. Những
căn cứ để hoạch định chiến lược bảo vệ Tổ quốc:
-
Học
thuyết Mác –Lenin và tư tưởng HCM về Bảo vệ Tổ quốc XHCN.
-
Đường
lối, quan điểm của Đảng ta về xây dựng đất nước và tăng cường QPAN bảo vệ Tổ
quốc trong giai đoạn hiện nay.
-
Kinh
nghiệm truyền thống giữ nước của dân tộc và tình hình thực hiện nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc.
-
Về
đối tượng của CMVN:
+ Xác định đối tượng, đối tác.
+ Một chủ thể có thể vừa là đối tác vừa là đối
tượng. Hai mặt đối tác và đối tượng có thể chuyển hóa lẫn nhau.
-
Tình
hình trong những năm tới trên thế giới cũng như trong nước có liên quan trực
tiếp đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
3. Mục
tiêu chung trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc:
Nghị quyết số 28-NQ/TW được ban hành trên cơ sở
thành tựu, kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn qua gần 30 năm đổi mới đất
nước, nhất là kế thừa kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 (khóa
IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới. Đây là Nghị
quyết chuyên đề về nhiệm vụ BVTQ của Đảng ta. Trong đó, xác định rõ mục tiêu,
quan điểm, phương châm chỉ đạo, nhiệm vụ và các giải pháp thực hiện BVTQ
trong bối cảnh mới của tình hình thế giới, khu vực, hội nhập quốc tế. Chúng
ta cần quán triệt sâu sắc những nội dung cơ bản sau:
a)
Bảo vệ vững chắc độc
lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc:
Trước đây, trong điều kiện phải chiến đấu chống xâm
lược, giải phóng Tổ quốc, tư duy chiến lược của chúng ta về bảo vệ Tổ quốc thiên
về dùng vũ trang chống lại sự tấn công từ bên ngoài là chủ yếu. Ngày nay,
trong điều kiện rất mới của quốc tế và trong nước, một mặt phải chuẩn bị đầy
đủ sức mạnh vũ trang cần thiết để giữ vững hòa bình, sẵn sàng đánh thắng
chiến tranh xâm lược của các thế lực thù địch trong mọi tình huống; mặt khác,
tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc nhấn mạnh sức mạnh và các biện pháp phi
vũ trang để giữ vững được độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội mà không phải tiến hành chiến tranh, ngăn
chặn không để xảy ra chiến tranh, phát triển đất nước về mọi mặt theo đúng
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về đối tượng, đối tác, tư duy bảo vệ Tổ quốc, về
quốc phòng, an ninh, đối ngoại của chúng ta đã có sự phát triển, đổi mới.
Chúng ta nhận thức về đối tượng và đối tác linh hoạt, uyển chuyển và biện
chứng hơn; chúng ta cũng ngày càng thấy rõ vai trò quan trọng của an ninh và
đối ngoại, sự cần thiết phải kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng với an ninh và
đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; giữa quốc phòng, an ninh, đối ngoại
với kinh tế - tức là chúng ta nhận thức toàn diện, sâu sắc, biện chứng hơn
mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Đó là một
thành quả mới về lý luận bảo vệ Tổ quốc của Đảng ta.
b)
Bảo vệ Đảng, NN, nhân dân và chế độ XHCN:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, để
chống lại kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều lần, chúng ta đã phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc. Kế thừa truyền thống đó, Nghị quyết Trung
ương 8 (khóa XI) tiếp tục khẳng định sức mạnh BVTQ là sức mạnh tổng hợp của
cả nước, bao gồm sức mạnh trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và của
các lực lượng; kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế, nhưng suy
cho cùng sức mạnh của nhân dân mới là điều căn bản nhất. Dưới thời nhà Hồ,
khi trả lời nhà vua về kế sách chống giặc giữ nước, Hồ Nguyên Trừng đã nói:
“Thần không sợ giặc mạnh, chỉ sợ lòng dân không theo” và chính vì không được
lòng dân nên mặc dù có thành cao, hào sâu, nhà Hồ đã không ngăn được quân xâm
lược và bị mất nước. Ngày nay, sức mạnh của nhân dân vẫn là yếu tố quyết
định, nhưng sức mạnh đó huy động được đến đâu cho sự nghiệp BVTQ còn tùy
thuộc vào lòng tin và sự đồng thuận của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và
chế độ XHCN. Vì vậy, để phát huy sức mạnh tổng hợp của đất nước, vai trò của
nhân dân đối với sự nghiệp BVTQ đòi hỏi cấp ủy, chính quyền các cấp phải gắn
bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, giải quyết kịp thời
những vướng mắc trong nhân dân và điều cốt yếu là phải đem lại lợi ích ngày
càng nhiều hơn cho nhân dân. Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) nhấn mạnh:
phải “thường xuyên bám sát cơ sở, nắm chắc tình hình, chủ động xử lý đúng
đắn, kịp thời mọi tình huống gây mất ổn định chính trị - xã hội”; “củng cố sự
đoàn kết, thống nhất trong Đảng, lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước,
tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bảo đảm ổn định chính trị - xã
hội, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận”.
c)
Bảo vệ sự nghiệp đổi mới CNH –HĐH:
Tạo điều kiện thuận lợi cho khoa học và công nghệ
phát triển nhanh đạt trình độ tiên tiến hiện đại. Tăng cường lực lượng vật
chất - kỹ thuật cho quốc phòng, an ninh; bảo đảm đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội của đất nước ngày càng được cải thiện. Tạo điều kiện vật chất cho việc
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đủ sức thực hiện sự phân công và hợp tác
quốc tế.
d)
Bảo vệ lợi ích Quốc gia, dân tộc
Lợi ích quốc gia - dân tộc của chúng ta là cụ thể:
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc;
chế độ xã hội chủ nghĩa, sự giàu mạnh, hùng cường của đất nước, ấm no, tự
do, hạnh phúc của nhân dân.
Đây là mục tiêu mà chúng ta sẵn sàng vượt qua mọi
chông gai, quyết phấn đấu thực hiện cho bằng được, cũng là cơ sở để chúng ta
phân định những việc cần phải làm và những việc cần phải tránh, như lời Bác
Hồ dạy: Cái gì có lợi cho dân, cho nước thì phải hết sức làm, cái gì có hại
cho dân, cho nước thì phải hết sức tránh; là tiêu chuẩn để chúng ta nhận diện
ai là bạn, ai là thù, ai là đối tác, ai là đối tượng trong từng lĩnh vực, từng
tình huống, hoàn cảnh cụ thể; những quan điểm của Đảng ta: Những ai tôn trọng
độc lập, chủ quyền, thiết lập quan hệ hữu nghị và mở rộng quan hệ hữu nghị,
hợp tác bình đẳng cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta; bất
kỳ thế lực nào có âm mưu, hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng đấu tranh. Làm trái thế,
xâm hại đến lợi ích quốc gia, dân tộc là vong thân, hại quốc, là có tội với
tổ tiên, các thế hệ cha ông, là phụ lại lòng tin và sự ủy thác của hơn 90
triệu đồng bào!
e)
Bảo vệ An ninh chính trị, Trật tự An toàn
XH và nền VH Việt Nam
Đảng ta xác định rõ, phải kết hợp chặt chẽ giữa xây
dựng lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với lực lượng và thế trận an
ninh nhân dân, đặc biệt coi trọng xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng khu
vực phòng thủ vững chắc để tăng cường tiềm lực và sức mạnh quốc phòng. Đồng
thời tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, nhất là xây
dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu toàn diện và trình độ sẵn sàng
chiến đấu cao, làm nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân. Tuy nhiên, cũng cần
phải thấy lực lượng quân đội tinh nhuệ, vũ khí trang bị kỹ thuật hiện đại là
cần thiết nhưng sẽ là chưa đủ để bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia. Đi kèm
với đó, quan trọng là ta phải giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, tăng cường
hội nhập khu vực và quốc tế, sẵn sàng hợp tác với tất cả các bên vì lợi ích
chung, vì hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực.
f)
Giữ vững ổn định chính trị và môi trường
hòa bình để phát triển đất nước theo định hước XHCN:
Trong bất kỳ tình huống nào, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đều
quyết tâm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc;
bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc;
bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giữ vững ổn định chính trị - xã hội, môi trường
hòa bình để phát triển đất nước theo mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh". Điều dễ nhận thấy là nội hàm mục tiêu của
quốc phòng và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay của chúng ta rất rộng, rất
toàn diện và ngày càng sâu sắc. Đó là sự thống nhất biện chứng giữa giữ vững
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc với giữ vững chế độ xã hội
chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;… Nhưng trên hết là giữ vững môi
trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; cơ bản nhất là ngăn chặn,
đẩy lùi nguy cơ chiến tranh.
|
|
Câu 2: Phân tích quan điểm chỉ đạo của Đảng trong
Chiến lược bảo vệ TQ
Giữ
vững vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với sự nghiệp
BVTQ; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hiệu lực, hiệu
quả của NN, không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc là
nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp BVTQ.
b) Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc găn
liền với CNXH; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế
-xã hội là lợi ích cao nhất của đất nước. Đồng thời, luôn nêu cao cảnh giác,
đánh bại mọi âm mưu, hành động chống phá, xâm lược của các thế lực thù địch,
không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
c) Kết hợp chặt chẽ 2 nhiệm vụ chiến lược,
xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc; phát huy sức mạnh của
dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc; phát huy nội lực
đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi từ bên ngoài; nắm chắc
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, phát
triển văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội; kết hợp chặt chẽ các nhiệm vụ
phát triển kinh tế, XH với củng cố, tăng cười QP, AN, đối ngoại.
d) Xây dựng sức mạnh tổng hợp về chính trị,
tinh thần, kinh tế, XH, VH, QPAN, đối ngoại; phát huy sức mạnh của khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
sự quản lý, điều hành thống nhất của NN, LLVT làm nòng cốt; tăng cường tiềm
lực QPAN, xây dựng thế trận Quốc phòng toàn dân, thế trận An ninh nhân dân
phù hợp với hoàn cảnh mới.
e) Quán triệt đường lối độc lập, tự chủ,
đồng thời chủ động, tích cực hội nhập Quốc tế; kiên trì chính sách đối ngoại
rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa; thêm bạn, bớt thù, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh, gia tăng hợp tác.
Chủ
động phòng ngừa, sớm phát hiện và triệt tiêu những nhân tố bên trong có thể
dẫn đến những đột biến bất lợi.
|
|
Câu 7: Phân tích các quan điểm cơ bản
trong phòng, chống tội phạm.
a) KN phòng, chống tội phạm: là quá trình sử dụng biện pháp, chiến
lược, sách lượ, phương tiện cần thiết với sự tham gia của nhiều lực lượng XH
nhằm không để tội phạm xảy ra, hạn chế, ngăn chặn, xử lí, làm giảm tội phạm
và quản lý giáo dục, cải tạo người phạm tội.
b) Quan điểm phòng, chống tội phạm:
Phòng, chống tội phạm là một trong những
nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên, lâu dài của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân,
đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng, sự quản lý,
điều hành thống nhất của Nhà nước, do các cơ quan bảo vệ pháp luật và lực
lượng chuyên trách làm nòng cốt.
Chiến lược phòng, chống tội phạm là một
nội dung quan trọng, bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển đất nước,
phục vụ đắc lực nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước, các
đoàn thể trong sạch, vững mạnh, tạo môi trường xã hội ổn định, lành mạnh phục
vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, đối
ngoại của đất nước.
Sử dụng đồng bộ các biện pháp chính trị,
tổ chức - hành chính, kinh tế - xã hội, pháp luật, nghiệp vụ, vũ trang, ngoại
giao để phòng, chống tội phạm. Kết hợp giữa phòng ngừa và đấu tranh trấn áp,
lấy phòng ngừa làm chính. Coi trọng hoạt động phòng ngừa xã hội, phòng ngừa
tội phạm từ gia đình và cơ sở. Huy động sức mạnh của hệ thống chính trị và
sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội vào cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Đảng ta đã đưa ra các quan điểm chủ đạo
trong công tác phòng, chống tội phạm:
-
Xã hội hóa công tác phòng, chống tội
phạm:
Phòng, chống tội phạm là nghĩa vụ, trách
nhiệm, quyền lợi của mọi cá nhân, cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức chính trị
-xã hội, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, điều hảnh của UBND, sự tham mưu hướng dẫn của lực lượng
công an nhân dân…. Quan điểm này được xây dựng trên cơ sở xác định “cách mạng
là sự nghiệp của quần chúng và quần chúng là người làm nên lịch sử”. Vì vậy,
hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước ta là sự nghiệp của toàn
dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của ĐCSVN.
Tội phạm là hiện tượng XH tiêu cực và rất
phức tạp. Vì vậy, để đấu tranh có hiệu quả đối với hiện tượng tiêu cực này,
chúng ta phải dựa vào XH, huy động sức mạnh của toàn XH.
-
Công tác phòng, chống tội phạm phải được
thực hiện trong sự lồng ghép chặt chẽ với nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội
của Đảng và NN.
Tội phạm là một vấn đề xã hội, có nguyên
nhân kinh tế -XH, do đó để phòng, chống tội phạm, trước hết phải phát triển
kinh tế -XH, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân nhằm khắc
phục các nguyên nhân kinh tế -xã hội đó của tội phạm thì tội phạm sẽ từng
bước bị giảm dần và dẫn đến triệt tiêu.
-
Chủ động phòng ngừa, tích cực tấn công
trấn áp tội phạm, lấy phòng ngừa là cơ bản, đấu tranh trấn áp tội phạm là
quan trọng.
Mục đích của đấu tranh phòng, chống tội
phạm là không để tội phạm xảy ra, gây hậu quả xấu cho xã hội, giảm thiểu số
người bị xử lý bằng hình phạt. Đó chính là bản chất nhân đạo, tính nhân văn
của Đảng và NN ta trong đấu tranh phòng, chống tội phạm xảy ra. Nhưng, khi đã
áp dụng các biện pháp phòng ngừa mà tội phạm vẫn xảy ra thì phải kiên quyết
điều tra làm rõ và xử lý nghiêm minh, bảo đảm không một hành vi phạm tội nào
không bị phát hiện, không một người phạm tội nào không bị xử lý. Kết quả điều
tra, xử lý nghiêm minh tội phạm còn có tác dụng giáo dục, răn đe những người
phạm tội từ bỏ con đường phạm tội và những người khác không đi vào con đường
phạm tội, tạo thế áp đảo và niềm tin cho nhân dân trong công tác phòng ,
chống tội phạm.
v Như vậy, phương châm và quan điểm chủ đạo
trong phòng, chống tội phạm của nước ta hiện nay là lấy phòng ngừa làm cơ
bản, tạo thế chủ động tấn công trấn áp tội phạm, phát huy sức mạnh tổng hợp
của các lực lượng xã hội trong sự đồng bộ với các chương trình kinh tế -xã
hội.
|
|
Câu 8: Phân tích các nội dung cơ bản
trong đường lối, chính sách đối ngoại hiện nay của Đảng.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI diễn ra
khi đất nước ta bước vào thập niên thứ hai của thế kỷ XXI. Đại hội Đảng đã
thông qua 3 văn kiện quan trọng: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát
triển kinh tế-xã hội 2011-2020 và Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
Ba văn kiện quan trọng này nêu quan điểm,
phương hướng cơ bản chỉ đạo cả lâu dài, trung hạn và ngắn hạn về đường lối
đối ngoại, tạo thành một thể thống nhất. Cương lĩnh nêu những định hướng,
nguyên tắc lớn, mang tầm chiến lược cho cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Chiến lược cụ thể hóa đường lối đối ngoại nhằm phục vụ các mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011-2020. Phần đối ngoại trong Báo cáo chính
trị đề cập nhiều định hướng cụ thể cho các hoạt động đối ngoại 5 năm tới. Từ
Báo cáo chính trị đến Chiến lược và Cương lĩnh, đường lối đối ngoại của Đảng
được đề cập phù hợp với nhiệm vụ đối ngoại trong từng giai đoạn ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn, nhưng thống nhất về mục tiêu, nguyên tắc, phương châm
và những định hướng lớn, lâu dài. Nội dung của phần đối ngoại trong các văn
kiện đó hợp thành Đường lối đối ngoại Đại hội XI.
Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng chủ
trương: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh”. Báo cáo
Chính trị xác định: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường
hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế
giới”.
Kế thừa đường lối đối ngoại của 25 năm
Đổi mới, đường lối đối ngoại Đại hội XI có những bổ sung, phát triển phù hợp
với tình hình mới, thể hiện ở những nội dung chính dưới đây:
Thứ nhất, về mục tiêu của đối ngoại, văn
kiện Đại hội XI nêu: “Vì lợi ích quốc gia, dân tộc”. Cùng với lợi ích quốc gia dân tộc, Đại
hội XI cũng đặt mục tiêu đối ngoại là “vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
giàu mạnh”. Hai mục tiêu này thống nhất với nhau. Bảo đảm lợi ích quốc gia,
dân tộc là cơ sở cơ bản để xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây
dựng một nước Việt nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh là phù hợp với lợi ích quốc
gia dân tộc và là điều kiện cần để thực hiện các lợi ích đó.
Lần đầu tiên, mục tiêu đối ngoại “vì lợi
ích quốc gia, dân tộc” được nêu rõ trong phần đối ngoại của Cương lĩnh và Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đảng. Nói như vậy không có nghĩa Đảng ta chưa từng
xác định mục tiêu đối ngoại là vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Từ khi Đảng ra
đời, lợi ích quốc gia, dân tộc luôn luôn là mục tiêu phấn đấu của Đảng ta.
Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị khóa VI đã khẳng định “Lợi ích cao nhất của
Đảng và nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây
dựng và phát triển kinh tế” . Nghị quyết Trung ương 8, khóa IX nhấn mạnh “bảo
vệ lợi ích quốc gia, dân tộc” là một trong những mục tiêu then chốt của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc .
Tuy nhiên, việc nêu rõ lợi ích quốc gia,
dân tộc là mục tiêu đối ngoại trong văn kiện Đại hội XI của Đảng có ý nghĩa
rất quan trọng, khẳng định rõ hơn định hướng: Đảng ta hoạch định và triển
khai chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc, từ đó tái
khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai cấp và lợi ích
của dân tộc. Khẳng định lợi ích quốc gia, dân tộc là mục tiêu đối ngoại cũng
có nghĩa là Đại hội đặt lợi ích quốc gia, dân tộc là nguyên tắc cao nhất của
các hoạt động đối ngoại. Nói cách khác, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc là
nguyên tắc mà tất cả các hoạt động đối ngoại, từ ngoại giao Nhà nước, đối
ngoại Đảng đến ngoại giao nhân dân, đều phải tuân thủ.
Thứ hai, về nhiệm vụ của công tác đối
ngoại, văn kiện Đại
hội XI nêu rõ: “Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình,
thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; nâng cao vị thế của đất
nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới” . Phục vụ các mục tiêu quốc gia
về phát triển, an ninh và nâng cao vị thế đất nước là nhiệm vụ nhất quán
trong đường lối, chính sách đối ngoại thời kỳ đổi mới. Điểm mới trong phần
đối ngoại của văn kiện Đại hội XI là xác định rõ hơn khía cạnh an ninh khi
nêu rõ nhiệm vụ “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ”. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là cơ sở tồn
tại của một quốc gia. Bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ luôn luôn là một trong những nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia. Việc nêu
rõ điều này trong nhiệm vụ đối ngoại là nhằm đáp ứng những phát triển mới của
tình hình, đồng thời khẳng định vai trò của đối ngoại trong sự nghiệp bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.
Thứ ba, về các nguyên tắc phải tuân thủ khi tiến hành các
hoạt động đối ngoại, tái khẳng định các nguyên tắc của đường lối,
chính sách đối ngoại thời kỳ Đổi mới, Đại hội XI nêu: “bảo đảm lợi ích quốc gia, giữ
vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”, “tôn
trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp
quốc”. Bên cạnh những nguyên tắc nhất quán này, văn kiện Đại hội XI,
phần định hướng giải quyết các vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ,
ranh giới trên biển và thềm lục địa với các nước liên quan, nêu thêm nguyên
tắc giải quyết các vấn đề tồn tại trên cơ sở các “nguyên tắc ứng xử của khu
vực”.
Thứ tư, về phương châm của đường lối đối ngoại, các văn
kiện của Đại hội khẳng định: thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa
quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy và
thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Điểm mới trong
phương châm đối ngoại của Đại hội XI là “hội nhập quốc tế” và “thành viên có
trách nhiệm”.
Về hội nhập quốc tế,
Đại hội XI chuyển từ chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc
tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khác” được thông qua
tại Đại hội X sang “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” . Với chủ trương
này, hội nhập quốc tế không còn bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà mở rộng ra
tất cả các lĩnh vực khác, kể cả chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã
hội....
Hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực
mang đến cho chúng ta nhiều cơ hội, nhất là khả năng tranh thủ hiệu quả hơn
các nguồn lực bên ngoài. Cùng với hội nhập kinh tế, hội nhập trong các lĩnh
vực khác sẽ tạo cơ hội lớn hơn trong tiếp cận tới tri thức tiên tiến của nhân
loại, gia tăng mức độ đan xen lợi ích, từng bước làm cho đất nước trở thành
bộ phận hữu cơ của khu vực và thế giới, chiếm vị trí ngày càng cao trong nền
kinh tế, chính trị và văn hóa toàn cầu. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực
cũng tạo cho chúng ta khả năng tận dụng được sự tác động qua lại, bổ sung lẫn
nhau giữa hội nhập trong từng lĩnh vực. Tuy nhiên, từ hội nhập kinh tế quốc
tế và mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực khác chuyển sang hội nhập quốc tế
trên tất cả các lĩnh vực đặt ra cho chúng ta một số thách thức mới. Tác động
tiêu cực từ các diễn biến bên ngoài sẽ gia tăng. Những bất ổn không chỉ về
kinh tế mà cả về an ninh, chính trị, xã hội từ bên ngoài sẽ nhanh chóng tác
động tới nước ta; các loại tội phạm xuyên biên giới như: buôn bán ma túy, rửa
tiền, thâm nhập tiền giả, tài liệu phản động, văn hóa phẩm không lành mạnh và
các thách thức an ninh phi truyền thống khác có thể gây tác hại đến mọi mặt
của an ninh quốc gia từ an ninh kinh tế đến an ninh chính trị xã hội. Phạm vi
và tốc độ lây lan của các cú sốc từ bên ngoài cũng gia tăng. Đồng thời, yêu
cầu bổ sung và hoàn thiện thể chế; cải cách và hiện đại hóa nền hành chính
quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao
v.v... sẽ ngày càng lớn.
Theo đó, để giảm thiểu các tác động tiêu
cực và khai thác tối đa các cơ hội từ hội nhập quốc tế, nội hàm và lộ trình
của hội nhập trong các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh và văn hóa-xã
hội cần phải được xác định phù hợp với thế, lực của đất nước và bối cảnh tình
hình đất nước sao cho hội nhập quốc tế phục vụ hiệu quả nhất mục tiêu phát
triển, bảo vệ Tổ quốc XHCN và vị thế quốc gia.
Từ đường lối đối ngoại trên cơ sở tuyên
bố “muốn là bạn” (Đại hội Đảng lần thứ VII), “sẵn sàng là bạn” (Đại hội Đảng
lần thứ VIII), “là bạn và đối tác tin cậy” (Đại hội Đảng lần thứ IX), Đại hội
Đảng lần thứ XI hoàn chỉnh và bổ sung thêm cụm từ là “thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Nội hàm này thể hiện bước trưởng thành của
ngoại giao Việt Nam với sự tham gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách
nhiệm của nước ta tại các cơ chế/tổ chức/diễn đàn khu vực, đa phương và toàn
cầu (ngoại giao đa phương), góp phần củng cố, nâng cao vị thế của Việt Nam
trên trường quốc tế, bổ sung, hỗ trợ hiệu quả cho ngoại giao song phương. Nội
hàm mới này là một trong những cơ sở để xác định một trong những ưu tiên đối
ngoại trong thời gian tới là “xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh”. Tuy vậy,
trách nhiệm bao gồm những gì và thực hiện trách nhiệm như thế nào luôn luôn
cần được tính toán kỹ trên cơ sở lợi ích quốc gia dân tộc, năng lực thực hiện
của ta trong từng vấn đề, từng giai đoạn. Trách nhiệm cần được xác định theo
các cấp độ: trách nhiệm đối với dân tộc của mình; trách nhiệm đối với khu vực
của mình; trách nhiệm đối với những vấn đề chung của nhân loại.
Thứ năm, về định hướng đối ngoại, bên cạnh định hướng bao trùm là nâng cao
hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục đưa các mối quan hệ quốc tế đi vào
chiều sâu, Đại hội XI nêu định hướng về: giải quyết các vấn đề tồn tại về biên giới
lãnh thổ; ưu tiên đối tác và định hướng quan hệ ASEAN; đối ngoại Đảng; ngoại
giao nhân dân và; định hướng tổ chức thực hiện. Về đối
ngoại quốc phòng, an ninh, Đại hội chỉ rõ: “Tiếp tục mở rộng hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”, “Tham gia các cơ chế hợp tác chính
trị, an ninh, song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia và trên cơ sở các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc” .
Với định hướng này, đối ngoại quốc phòng, an ninh sẽ tiếp tục phát triển và
có vai trò ngày càng quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bối cảnh nước ta ngày càng hội nhập
sâu rộng vào khu vực và thế giới.
Về định hướng tham gia trong ASEAN, Đại
hội XI chỉ rõ: “Chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng
Cộng đồng ASEAN vững mạnh, tăng cường quan hệ với các đối tác, tiếp tục giữ
vai trò quan trọng trong các khuôn khổ hợp tác ở khu vực Châu Á-Thái Bình
Dương” . Định hướng này là bước phát triển cao hơn từ định hướng: “Thúc đẩy
quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước Châu
Á-Thái Bình Dương” được thông qua tại Đại hội X. Bước phát triển này thể
hiện, Đảng ta khẳng định rõ Việt Nam là một thành viên trong ASEAN, Việt Nam
tham gia các hoạt động trong ASEAN với tư cách là một thành viên có trách
nhiệm; chỉ rõ mục tiêu của các hoạt động của Việt Nam trong ASEAN là xây dựng
thành công Cộng đồng ASEAN; xác định rõ đặc tính của Cộng đồng ASEAN mà Việt
Nam phấn đấu cùng các nước xây dựng là một cộng đồng vững mạnh, có quan hệ
chặt chẽ với các đối tác bên ngoài và có vai trò ngày càng quan trọng trong
các cơ chế hợp tác ở khu vực; đồng thời khẳng định, phương châm tham gia hợp
tác ASEAN là chủ động, tích cực và có trách nhiệm. Với định hướng này, việc
tham gia trong ASEAN trở thành một trong những trọng tâm trong chính sách đối
ngoại của Việt Nam, ngang với “quan hệ hợp tác, hữu nghị truyền thống với các
nước láng giềng chung biên giới”.
Thứ sáu, về triển khai các hoạt động đối
ngoại, Đại hội XI
nêu: “Triển khai đồng bộ, toàn diện hoạt động đối ngoại”. Khi hội
nhập quốc tế mở ra tất cả các lĩnh vực thì việc triển khai đối ngoại tất yếu
phải toàn diện và để các hoạt động này không chồng chéo, không triệt tiêu lẫn
nhau thì việc triển khai phải được thực hiện đồng bộ. Tính toàn diện của đối
ngoại Việt Nam được quy định bởi sự lãnh đạo toàn diện của Đảng trong mọi
hoạt động của hệ thống chính trị, đặc biệt trong hoạt động đối ngoại; tính
toàn diện trong mục tiêu của chính sách đối ngoại và; sự đa dạng của các mối
quan hệ đối ngoại trong quá trình hội nhập.
Triển khai đồng bộ và toàn diện các hoạt
động đối ngoại, nói cách khác là xây dựng một nền đối ngoại toàn diện, sẽ tạo
nên xung lực tổng hợp của các lĩnh vực, các loại hình, các kênh đối ngoại,
nhưng cũng tạo nên một số thách thức mới. Nếu không có kế hoạch tổng thể và
nếu không có sự chỉ đạo thống nhất và phối hợp nhịp nhàng giữa các kênh, các
lĩnh vực đối ngoại thì sẽ dẫn đến lãng phí nguồn lực và làm suy giảm hiệu quả
của các hoạt động đối ngoại.
Coi triển khai đồng bộ và toàn diện là
phương châm ưu tiên trong triển khai đối ngoại, Đại hội XI sẽ tạo ra nhận
thức và đồng thuận lớn hơn trong Đảng và nhân dân về tính chất mới của sự
nghiệp đối ngoại cũng như nêu rõ hơn yêu cầu tham gia tích cực và chủ động
hơn của mọi lực lượng trong hoạt động đối ngoại, đồng thời đưa tới những bước
tiến mạnh hơn theo hướng thống nhất chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà
nước, các Bộ/ngành và địa phương.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét