Đề cương thảo luận (tham khảo) môn dân vận trung cấp chính trị trường cán bộ 2014
Câu 1: Trình bày vị trí, tầm quan trọng của công tác Dân vận
đối với tổ chức cơ sở Đảng?
Ngay sau khi
giành được chính quyền, ngày 15/10/1949, Bác Hồ đã viết bài báo “Dân vận”
đăng trên báo Sự thật. Bác đã chỉ rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác dân vận,
giải thích dân vận là gì, ai có trách nhiệm làm dân vận và phương pháp làm
dân vận như thế nào.
Người đưa ra khái niệm: "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho".Đó là tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân (mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng.
Từ quan điểm
của C.Mac, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh:
- Công tác dân vận của Đảng là toàn bộ
hoạt động của Đảng để nhằm tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, được thể hiện bằng việc vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua Nhà nước XHCN,
các tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và vai trò tiên phong gương
mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam đã chỉ ra rằng: mọi thắng
lợi của các triều đại phong kiến trong việc bảo vệ, xây dựng đất nước là do
các triều đại này đã “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào dân và biết phát huy sức
mạnh của nhân dân.
Triều đại nhà Trần, Trần Quốc Tuấn đã làm rõ hơn
tầm quan trọng của việc “lấy dân làm gốc”. Ông cho rằng cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên - Mông muốn thắng lợi thì phải “Vua tôi đồng tâm, anh em
hòa thuận, cả nước góp sức”. Sau khi chiến thắng quân Nguyên - Mông, ông lại
nghĩ đến thực hành chính sách “khoan thư sức dân để làm kế bền gốc rễ, đó là
thượng sách giữ nước”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy và
luôn đánh giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân người khẳng định:
“Dễ mười lần không dân cũng chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
“Góc có vững cây mới bền ,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
“Lực lượng của dân rất to.
Việc dân vận rất quan trọng. dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo
thì việc gì cũng thành công”
Trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa
chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; là điều kiện quan trọng
bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Công tác DV của đảng ta
trong giai đoạn hiện nay là cực kỳ quan trọng. Đảng ta khẳng định công tác DV
là công tác quyết định cho thành công trong quá trình quá độ lên XHCN.
DV là đường lối chiến lược, nhiệm vụ chiến lược,
là phương pháp CM của Đảng nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, huy động
mọi tìm lực trong nhân dân để thực hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn CM.
DV là lĩnh vực hoạt động rộng lớn liên quan đến mọi người, mọi lĩnh vực
hoạt động khác trong đời sống VH.
Công
tác dân vận là một trong những công tác cơ bản của Đảng cộng sản Việt Nam, là
một trong những nhân tố góp phần hình thành các nhiệm vụ cách mạng, tạo nên
mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay công tác dân vận vừa mang tính chiến lược vừa mang tính cấp thiết đối với sự nghiệp đổi mới đất nước. Để phát huy vai trò lãnh đạo và thực thi quyền lực chính trị của Đảng, công tác dân vận cần quán triệt và thực hiện tốt những nội dung sau: 1. Truyền bá Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh Để góp phần làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh hơn, xứng đáng là hạt nhân lãnh đạo, phát huy trí tuệ và sức mạnh của dân tộc thì vai trò của công tác dân vận trong việc truyền bá hệ tư tưởng của Đảng trong nhân dân có ý nghĩa hết sức quan trọng.
2.
Phản ánh ý chí nguyện vọng của nhân dân
Công tác dân vận không chỉ là sự "tuyên truyền", "vận động "…mà công tác dân vận còn nhằm phát huy các sáng kiến, sáng tạo từ phía quần chúng nhân dân, "Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra" [Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5 tr 295].
3.
Tạo nên sự đồng thuận, nhất trí, đoàn kết, thúc đẩy tính tích cực chính trị
của nhân dân
Công tác dân vận có vai trò rất quan trọng trong quá trình tạo ra sự động thuận xã hội. Bởi vì: Trong công tác dân vận Đảng ta luôn nhất quán tư tưởng "dân là chủ", "dân làm chủ", vì vậy, trong quá trình hoạt động đội ngũ làm công tác dân vận phải làm cho các tầng lớp nhân dân, các cộng đồng, các nhóm trong xã hội xác định được vai trò của mình trong đời sống chính trị. Muốn nhân dân đồng thuận, nhất trí, đoàn kết, thúc đẩy tính tích cực chính trị của nhân dân thì trước hết phải quan tâm đến lợi ích của họ. Phải lấy lợi ích thiết thân của người lao động làm cơ sở để xây dựng chủ trương, chính sách, xây dựng và phát triển đất nước, bởi vì lợi ích là cái gắn bó người ta lại với nhau, là động lực thúc đẩy mọi hành động của nhân dân. Khi nhân dân đã hiểu đúng, hiểu đầy đủ thì sẽ tạo được sự tự giác trong thực hiện, đồng thời củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước. Chính sách đúng, cơ chế phù hợp còn là yếu tố quan trọng của Nhà nước, của cơ quan chính quyền trong việc phục vụ nhân dân và phát huy sức mạnh toàn dân.
“Dân vận không
thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà
đủ”.
Trước nhất là phải tìm mọi
cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rằng: “Việc đó là lợi ích cho họ,
là nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”.
Điểm thứ hai
là, “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, cùng với dân đặt kế
hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên tổ chức toàn dân
ra thi hành”.
Điểm thứ ba là, trong lúc thi hành phải theo dõi,
giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.
Điểm thứ tư
là, khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc,
rút kinh nghiệm phê bình khen thưởng”.
Quy trình và
phương thức dân vận nêu trên chính là tiền đề của phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà Đảng ta khái quát sau này.
Thông qua công tác dân vận giúp người dân biết tìm ra những tương đồng chung, biết gác lại những khác biệt và hành động trên cơ sở những tương đồng chung ấy. Đó chính là cơ sở để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, là yếu tố cơ bản để phát huy nội lực của đất nước./.
Câu 2: Phân tích ý nghĩa 4 quan điểm của Nghị quyết 8B khóa VI về Đổi mới
công tác vận động quần chúng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân?
Ngay sau khi giành được chính
quyền, ngày 15/10/1949, Bác Hồ đã viết bài báo “Dân vận” đăng trên báo Sự
thật. Bác đã chỉ rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác dân vận, giải thích
dân vận là gì, ai có trách nhiệm làm dân vận và phương pháp làm dân vận như
thế nào.
Người đưa ra khái niệm "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho".Đó là tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân (mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng.
Từ quan điểm
của C.Mac, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng ta khẳng định:
Công
tác dân vận của Đảng là toàn bộ hoạt động của Đảng để nhằm tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, được thể hiện bằng việc vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thông qua Nhà nước XHCN, các tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị -
xã hội và vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Để
khẳng định vai trò vị trí, tầm quan trọng của công tác dân vận tại Nghị quyết số 08B-NQ/HNTW (khóa VI) ngày 7/3/1990 đã nêu ra 4 quan
điểm cơ bản về công tác Dân vận là:
- Cách mạng là sự nghiệp của nhân
dân, vì nhân dân, do nhân dân cần được quán triệt sâu sắc hơn nữa trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đặt quan điểm này lên vị trí hàng
đầu, Đảng ta muốn khẳng định lại nguyên lý nền tảng của chủ nghĩa Mác -
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
Kế thừa và phát triển tư tưởng “dân là gốc” của cha ông ta, Đảng nhấn mạnh
đến vấn đề lực lượng và phương pháp cách mạng phải luôn dựa vào nhân dân,
phát huy sức mạnh của nhân dân để tiến hành sự nghiệp đổi mới, công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước;
Quán triệt, vận dụng quan điểm Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân,
vì nhân dân, do nhân dân cần được quán triệt sâu sắc hơn nữa trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cần :
Luôn lấy mục tiêu vì hạnh phúc của ND làm
trọng trách CM-XHCN không có mục tiêu nào khác ngoài việc thực hiện dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, dân tộc độc lập, nhân dân tự
do, ấm no, hạnh phúc.
Chế độ ta là chế độ do nhân dân làm chủ
dưới sự lãnh đạo của Đảng do đó phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ của ND,
cần khắc phục đồng thời phê phán một số xu hướng lệch lạc đã trở nên
trầm trọng, phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, như bệnh quan liêu,
mệnh lệnh, xa rời nhân dân, không tôn trọng nhân dân.
Để thực hiện quan điểm chỉ đạo nói trên, cần thấu hiểu và thực hiện bằng được tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “việc gì có ích cho dân thì phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì phải hết sức tránh”, nghiêm khắc phê phán mọi biểu hiện quan liêu, xa rời nhân dân, vi phạm quyền dân làm chủ của nhân.
-
Động lực thúc đẩy phong trào cách mạng của quần chúng là đáp ứng lợi ích
thiết thực của nhân dân và kết hợp hài hòa giữa các lợi ích, thống nhất giữa
nghĩa vụ và quyền lợi của công dân.
Các hình thức tập hợp nhân dân phải
đa dạng. Có như vậy mới phát huy được khả năng sáng tạo phong phú của quần chúng
nhân dân, từ đó giải quyết tốt các lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân
dân để đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước. Hiện nay, bên cạnh việc các
đoàn thể chính trị - xã hội cần đa dạng hóa về tổ chức và hình thức tập hợp
đoàn viên, hội viên, cũng cần tiếp tục đa dạng hóa, phát triển thêm nhiều tổ
chức xã hội rộng rãi theo nghề nghiệp, hiệp hội, theo nhu cầu, sở thích,...
- Công tác vận động quần chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Các tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên phải làm tốt công tác quần chúng, vì đây là công tác
cơ bản của Đảng, gắn bó chặt chẽ với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng cũng khẳng định: công tác
quần chúng không chỉ là trách nhiệm của các đoàn thể mà còn là trách nhiệm
của các tổ chức khác thuộc hệ thống chính trị, thực hiện phối hợp với nhau
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước đều phải
làm công tác quần chúng theo chức trách của mình. Có như vậy mới tập hợp được
mọi lực lượng, đoàn kết được toàn dân, tạo thành phong trào quần chúng rộng
lớn vì sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xem nhẹ
công tác vận động quần chúng hoặc “khoán trắng” cho Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể cần được phê phán, khắc phục triệt để.
Những quan
điểm nói trên là một chỉnh thể thống nhất, toàn diện về công tác quần chúng
của Đảng trong thời kỳ đổi mới. Vấn đề trọng tâm có tính cơ bản và cấp bách
mà Nghị quyết vạch ra là đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân; tăng cường công tác quần chúng của bộ máy nhà nước;
đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác quần chúng.
Bốn quan điểm chỉ đạo này là sự tổng kết từ thực tiễn cách mạng nước ta vừa có tính lý luận, vừa có tính thực tiễn sâu sắc và mang tính chiến lược đối với công tác dân vận của Đảng trong những giai đoạn tiếp theo.
Thắm nhuần
bốn quan điểm trên bản thân là Đảng viên luôn thực hiện nghiêm các quan điểm
chủ trương của đảng.
|
Câu 3: “ Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự phát triển đất nước”. Anh (chị) hãy phân tích và chứng minh quan
điểm trên. Liên hệ việc vận dụng vào thực tiễn tại cơ quan, đơn vị.
Theo quan niệm của CN Mac,Lê nin kế thừa thì dân
chủ là một chế độ xã hội mà quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Theo nghĩa rộng thông thường nhất, dân chủ
có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân có quyền làm chủ mọi mặt
liên quan đến đời sống của mình. Dân chủ là dân làm chủ và quan niệm đó là
thực thi quyền lực của dân.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy và luôn đánh giá cao vai trò, sức mạnh của
nhân dân người khẳng định:
“Dễ mười lần không dân cũng
chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng
xong”
“Góc có vững cây mới bền ,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định: "Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển đất nước". Vì vậy, xây dựng nền dân chủ XHCN là
vấn đề quan trọng xuyên suốt quá trình cách mạng của nước ta.
Bản chất của dân chủ XHCN là chế độ bảo đảm quyền
làm chủ thực tế của nhân dân lao động
trên mọi lĩnh vực đời sống kinh tế, chính trị xã hội và tinh thần, phát huy
tính tích cực sáng tạo của toàn thể nhân dân trong sự nghiệp xây dựng CNXH
bảo vệ tổ quốc XHCN thông qua nhà nước XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam, đặc biệt sau những
năm đổi mới, thể hiện rất rõ và hết sức sinh động việc phát huy dân chủ, cũng
như xây dựng nền dân chủ XHCN của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Quan niệm về
dân chủ ngày càng được mở rộng. Dân chủ được xem xét trên nhiều khía cạnh:
Dân chủ là chế độ chính trị; là giá trị; là phương thức và nguyên tắc tổ chức
xã hội; dân chủ chung đối với xã hội và dân chủ riêng đối với mỗi cá nhân;
dân chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Dân chủ XHCN còn phản
ánh một bước chuyển từ thể chế chính trị dựa trên áp lực, tuân thủ mệnh lệnh
sang thể chế hợp tác, đồng thuận, đầy trách nhiệm. Do vậy, với việc đưa dân
chủ trở thành một mục tiêu của CNXH càng thể hiện rõ sự phát triển về tư duy
lý luận của Đảng ta. Phát huy dân chủ XHCN không những phát huy được tính
tích cực, sự chủ động, tự giác của mỗi người trong xã hội, mà còn góp phần
quan trọng giải phóng năng lực sáng tạo của con người. Bởi vậy, không phải
đơn thuần trong mục tiêu xây dựng xã hội, Đảng ta đưa hai từ “dân chủ” lên
trước hai từ “công bằng”. Điều này vừa khẳng định vai trò của dân chủ trong
tiến trình xây dựng xã hội XHCN, vừa thể hiện sự nhận thức và tư duy mới của
Đảng; phù hợp với sự phát triển của thời đại.
Các cơ chế và chính sách mới đã mở rộng quyền tự
chủ và phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong sinh hoạt tư tưởng,
người dân được tự do thảo luận nhiều vấn đề; sự thảo luận và đối thoại trong
Quốc hội thẳng thắn, công khai; nhân dân được tham gia trực tiếp vào những
vấn đề trọng đại của đất nước như đóng góp ý kiến dự thảo sửa đổi hiến pháp
năm 2013. Nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật quan trọng đã được nhân dân
tham gia góp ý kiến trước khi quyết định….Nội dung và phương thức hoạt động
của các tổ chức trong hệ thống chính trị được đổi mới theo hướng phát huy dân
chủ nội bộ và quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường trách nhiệm và quyền hạn
của các CQ dân cử, nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền các cấp.
Dân chủ là mục tiêu, là động lực của công cuộc đổi
mới, là giải pháp có tính chiến lược để đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Một cách
khái quát, thành tựu xây dựng nền dân chủ XHCN, nhân dân Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đang sống trong bầu không khí dân chủ,
đoàn kết và hăng hái. Quyền làm chủ và không khí dân chủ trong xã hội ngày
càng được mở rộng nâng cao thể hiện “ý Đảng hợp lòng dân”. Cả thế giới đánh
giá cao về những thành tựu của nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới đất nước,
đánh giá cao về sự ''thay da đổi thịt'' đang diễn ra hằng ngày của mọi người
dân, của mọi tầng lớp dân cư Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
Câu 4: Phân tích và chứng minh tính đúng đắn của quan điểm: “Công tác
quần chúng không chỉ là trách nhiệm của các đoàn thể mà còn là trách nhiệm
của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, có sự phối hợp với nhau dưới
sự lãnh đạo của Đảng”.
Ngay sau khi giành được chính
quyền, ngày 15/10/1949, Bác Hồ đã viết bài báo “Dân vận” đăng trên báo Sự
thật. Bác đã chỉ rõ vị trí, tầm quan trọng của công tác dân vận, giải thích
dân vận là gì, ai có trách nhiệm làm dân vận và phương pháp làm dân vận như
thế nào.
Người đưa ra khái niệm "Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc Chính phủ và Đoàn thể giao cho".Đó là tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn dân (mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng.
Từ quan điểm
của C.Mac, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng ta khẳng định:
Công
tác dân vận của Đảng là toàn bộ hoạt động của Đảng để nhằm tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, được thể hiện bằng việc vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thông qua Nhà nước XHCN, các tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị -
xã hội và vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Vai trò của Nhân Dân:
Chủ nghĩa Mac-Lê nin chứng
minh một cách khoa khọc vai trò quyết định của nhân dân trong lịch sử. nhân
dân chính là lực lượng SX cơ bản của xã hội. lực lượng đó bao gồm cả lao động
chân tay và lao động trí óc. Nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách
mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng, là sang tạo
ra mọi giá trị vật chất và tinh thần của nhân loại.
Sức mạnh của đảng bắt
nguồn từ mối lien hệ mật thiết với nhân dân, từ sự đồng tình ủng hộ của nhân
dân. Chỉ ai tắm mính trong nguồn nước tươi mát của nhân dân thì mới chiến
thắng và giữ chính quyền.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy và luôn đánh giá cao vai trò, sức mạnh của
nhân dân người khẳng định:
“Dễ mười lần không dân cũng
chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng
xong”
“Góc có vững cây mới bền ,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”
“Lực lượng
của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng
kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Công tác tuyên truyền, vận
động quần chúng là một nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng Đảng, xây
dựng hệ thống chính trị, nhằm tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, tổ chức
thực hiện và động viên quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Công tác tuyên truyền, vận động quần
chúng là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
theo tư tưởng Hồ Chí Minh “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách
nhiệm với dân” và theo phương châm “tất cả hướng đến quần chúng nhân dân,
phục vụ quần chúng nhân dân”.
Xác định vị trí, vai trò
và tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, vận động quần chúng, ngày
03/6/2013 Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) đã ban
hành Nghị quyết số 25 - NQ/TW về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Nghị quyết đã đề ra mục tiêu của
công tác dân vận: Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối
với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to
lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
quan điểm của Nghị quyết
8B khóa VI về Đổi mới công tác vận động quần chúng, tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân
Công tác vận động quần
chúng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Các tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên phải làm tốt công tác quần chúng, vì đây là công tác
cơ bản của Đảng, gắn bó chặt chẽ với công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Đảng cũng khẳng định: công tác
quần chúng không chỉ là trách nhiệm của các đoàn thể mà còn là trách nhiệm
của các tổ chức khác thuộc hệ thống chính trị, thực hiện phối hợp với nhau
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhân viên nhà nước đều phải
làm công tác quần chúng theo chức trách của mình. Có như vậy mới tập hợp được
mọi lực lượng, đoàn kết được toàn dân, tạo thành phong trào quần chúng rộng
lớn vì sự nghiệp đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng xem nhẹ
công tác vận động quần chúng hoặc “khoán trắng” cho Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể cần được phê phán, khắc phục triệt để.
Câu 5: Chứng minh luận điểm của Hồ Chí Minh: “Lực lượng của dân rất
to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận
khéo thì việc gì cũng thành công”.
Ngày 15 tháng 10 năm 1949
trong tác phẩm “Dân vận” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kết luận: “Lực lượng của dân
rất to, việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân
vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Người đưa ra khái niệm "Dân
vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người
dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc Chính phủ
và Đoàn thể giao cho".Đó là tập hợp và huy động cho được sức mạnh của
toàn dân (mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng.
Từ quan điểm
của C.Mac, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh Đảng ta khẳng định:
Công
tác dân vận của Đảng là toàn bộ hoạt động của Đảng để nhằm tăng cường mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, được thể hiện bằng việc vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thông qua Nhà nước XHCN, các tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị -
xã hội và vai trò tiên phong gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Vai trò của Nhân Dân:
Chủ nghĩa Mac-Lê nin chứng
minh một cách khoa khọc vai trò quyết định của nhân dân trong lịch sử. nhân
dân chính là lực lượng SX cơ bản của xã hội. lực lượng đó bao gồm cả lao động
chân tay và lao động trí óc. Nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách
mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng, là sang tạo
ra mọi giá trị vật chất và tinh thần của nhân loại.
Sức mạnh của đảng bắt
nguồn từ mối lien hệ mật thiết với nhân dân, từ sự đồng tình ủng hộ của nhân
dân. Chỉ ai tắm mính trong nguồn nước tươi mát của nhân dân thì mới chiến
thắng và giữ chính quyền.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy và luôn đánh giá cao vai trò, sức mạnh của
nhân dân người khẳng định:
“Dễ mười lần không dân cũng
chịu,
Khó trăm lần dân liệu cũng
xong”
“Góc có vững cây mới bền ,
Xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”
“Lực lượng
của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng
kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
Công tác DV của đảng ta
trong giai đoạn hiện nay là cực kỳ quan trọng. Đảng ta khẳng định công tác DV
là công tác quyết định cho thành công trong quá trình quá độ lên XHCN.
DV là đường lối chiến lược, nhiệm vụ chiến lược,
là phương pháp CM của Đảng nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, huy động
mọi tìm lực trong nhân dân để thực hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn CM.
DV là lĩnh vực hoạt động rộng lớn liên quan đến mọi người, mọi lĩnh vực
hoạt động khác trong đời sống VH.
Trong 65 năm qua quán
triệt tư tưởng “dân vận khéo”, “ tất cả vì lợi ích nhân dân” của Người, Đảng
và nhà nước ta từ trung ương đến cơ sở, các ngành, các cấp, các tổ chức, đoàn
thể nhân dân đã có những chủ trương, chính sách phù hợp nhằm khơi dậy sức dân
và chăm lo lợi ích hợp pháp và chính đáng cho nhân dân; sự nghiệp cách mạng
do Đảng lãnh đạo đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Công cuộc đổi mới
tiếp tục thực hiện đồng bộ, toàn diện trên các lĩnh vực trong đời sống xã
hội, đẩy mạnh CNH,HĐH đất nước đang được Đảng và Nhà nước ta đặt vào nhiệm vụ
chiến lược hàng đầu với quan điểm: “CNH,HĐH là sự nghiệp của toàn dân, của
các thành phần kinh tế…”, “lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố
cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững, động viên toàn dân cần kiệm xây
dựng đất nước…tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện nâng cao đời sống nhân
dân, phát triển văn hóa giáo dục, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo
vệ môi trường .
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh
“nói đi đôi với làm” là “dân vận khéo”, “Cần kiệm, liêm chính” là dân vận
khéo; “việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì hại đến dân thì hết
sức tránh” là dân vận khéo; “cùng ăn, cùng ở, cùng làm với dân” là dân vận
khéo và Người đã dạy chúng ta “chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới
yêu ta, kính ta”. Dân vận khéo trái ngược với căn bệnh cá nhân chủ nghĩa,
quan liêu, cậy quyền, cậy thế, tư túng bè phái, kiêu ngạo, tham ô, lãng phí
Quán triệt tư tưởng “dân vận khéo” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn
hiện nay không có nghĩa là dừng lại ở những lời kêu gọi hô hào chung chung
hay chạy ở vòng ngoài của cuộc sống mà phải đi thẳng vào cuộc sống của nhân
dân để vận động xóa đói giảm nghèo, xóa tập tục, tệ nạn, chống quan liêu, xa
hoa, lãng phí….
Dân vận khéo là một nghệ
thuật linh hoạt, uyển chuyển cách tiến hành vận động phải phù hợp với đối
tượng, không rập khuông máy móc. Cán bộn làm công tác dân vận phải biết lắng
nghe, biết tuyên truyền thuyết phục sao cho người dân nghe theo mình nghe
theo đảng.
Cần có kỷ năng tham mưu
cho cấp trên, cho lãnh đạo đề ra đường lối chủ chương thích hợp cho tường
thời điểm từng giai đoạn vận động nhất định. Có như vậy thì công tác dân vận
mới đạt được hiệu quả cao nhất.
Nói đến cuộc sống không
thể không nói đến mối quan hệ giữa nhân dân với các chủ trương, chính sách
của Nhà nước; người làm chính sách đến với nhân dân phải thực sự quán triệt
tư tưởng dân vận khéo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng; chính
sách phải phù hợp với đối tượng, điều kiện hoàn cảnh và khả năng thực thi
cùng với sự công minh, liêm chính, trách nhiệm tận tụy của đội ngũ cán bộ
thực sự là linh hồn của dân vận khéo.
|
Câu 6: Mở đầu bài báo Dân
vận, Hồ Chí Minh viết:
“Nước ta là
nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân
…Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều
ở nơi dân”.
Anh chị hãy phân tích nội dung và ý nghĩa
của luận điểm trên đối với công tác dân vận hiện nay?
- Dân chủ là tư tưởng cơ bản xuyên suốt trong tư tưởng dân vận của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong bài Dân vận đăng trên báo sự thật (ngày 15-10-1949), trước khi bàn về nội dung, phương pháp dân vận, Người đã chỉ rõ cho cán bộ, đảng viên thấm nhuần về bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta đó là: “ Nước ta là nước dân chủ” và đây cũng là mục tiêu phấn đấu suốt đời của Người để xây dựng một nhà nước tốt đẹp, trong đó người dân thực sự là chủ: “ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, “ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân”. Chính từ cái cốt lõi: dân là gốc, dân là quý nhất, là quan trọng hơn hết.; muốn Dân là gốc thì dân phải là chủ. Mất cái lõi “Dân là gốc” thì dân chủ sẽ trở thành vô nghĩa.
Bác từng viết.
Sức mạnh của đảng bắt nguồn từ mối lien hệ mật thiết với nhân dân, từ
sự đồng tình ủng hộ của nhân dân. Chỉ ai tắm mính trong nguồn nước tươi mát
của nhân dân thì mới chiến thắng và giữ chính quyền.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy và luôn
đánh giá cao vai trò, sức mạnh của nhân dân người khẳng định:
“Dễ
mười lần không dân cũng chịu,
Khó
trăm lần dân liệu cũng xong”
“Góc
có vững cây mới bền ,
Xây
lầu thắng lợi trên nền nhân dân”
“Lực lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan
trọng, dân vận kém thì việc gì cũng kém, dân vận khéo thì việc gì cũng thành
công”.
Người đưa ra khái niệm "Dân vận
là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân
nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc Chính phủ và
Đoàn thể giao cho".Đó là tập hợp và huy động cho được sức mạnh của toàn
dân (mọi người, mọi nhà, mọi đối tượng) vào các phong trào cách mạng.
Từ quan điểm của C.Mac, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đảng ta khẳng định:
Công tác dân vận của Đảng là toàn bộ
hoạt động của Đảng để nhằm tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
nhân dân, được thể hiện bằng việc vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua Nhà nước XHCN,
các tổ chức Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và vai trò tiên phong gương
mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tư tưởng lấy dân
làm gốc có thể nói đây là điểm cốt lõi
trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng là điểm nhất quán trong tư duy cũng như
trong hành động của Người. Và thực tế đã chứng minh đó là nguyên nhân quyết
định mọi thành công trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Hợp
lòng dân, phản ánh được ý chí và nguyện vọng của dân thì đường lối, nghị
quyết của Đảng mới đi được vào cuộc sống, biến thành sức mạnh. Ngược lại, lúc
nào những chủ trương, chính sách, kể cả giải pháp thực hiện đi ngược với lợi
ích của dân, trái với nguyện vọng và ý chí của dân thì chắc chắn thất bại.
Thực tế đó chứng
minh lời căn dặn của Bác : "Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi
ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với
hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành"*.
Dựa vào dân, làm theo lợi ích của dân, đó là nguyên tắc bất di bất dịch trong
chủ trương đường lối cũng như trong chỉ đạo thực hiện. Vì , như Bác đã chỉ rõ
: "Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng,
đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không
ra"*.
Như thế là trọng
dân, tin dân, học dân, tổ chức và giáo dục để phát huy sức mạnh vô bờ của dân
là điều nhất quán trong toàn bộ sự nghiệp hoạt động của Hồ Chí Minh, nhất
quán trong hành trình tư tưởng của Hồ Chí Minh, là điều sáng rõ trong tư duy
của Hồ Chí Minh. Toàn bộ quyền lực thì chỉ thuộc về dân, dân trao quyền đó
cho Nhà nước mà Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Cần lưu ý
rằng "cao nhất" chứ không phải "tất cả". "Tất
cả" thì chỉ có ở Dân.
- “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đầu của dân….” Đã cho thấy động lực thúc đẩy phong trào cách
mạng của quần chúng là đáp ứng lợi ích thiết thực của người dân và kết hợp
hài hòa các lợi ích, thống nhất quyền lợi và nghĩa vụ của công dân.
Trong
công tác dân vận, đều quan trọng quyết là phải quan tâm đến lợi của người
dân. Đó chính là động lực thúc đẩy các phong trào hành động cách mạng quần
chúng. Lợi ích là sự thỏa mãn nhu cầu đòi hỏi khách quan tất yếu trong cuộc
sống hàng ngày của con người. Đó là như lợi ích về vật chất và tinh thần như
lợi ích kinh tế, cái ăn, cái mặc, học hành, đi lại, môi trường sống… Lợi ích
có vai trò rất quan trọng đối với đời sống con người. Nó là cơ sở để con
người xác định mục tiêu, lý tưởng; là động lực để thúc đẩy hành động; những
lợi ích chung là cơ sở tạo nên sự liên kết hoạt động chung của nhiều người
thuộc nhiều cộng đồng khác nhau, nghề nghiệp khác nhau. Cách mạng muốn thắng
lợi phải có chính Đảng lãnh đạo, phải có lý luận cách mạng và lực lượng cách
mạng. Muốn có lực lượng cần phải biết thuyết phục, giáo dục và vận động đong
đảo quần chúng nhân dân tham gia, nhưng để quần chúng nhân dân có thể một
lòng đi theo chính Đảng, cùng chính Đảng thực hiện thành công sự nghiệp cách
mạng thì họ cần phải thấy được quyền lợi của mình khi tham gia.
- Nội dung quan điểm: Trong xã hội, nhân
dân làm chủ, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội gắn chặt và
thống nhất với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp. Công tác
vận động và tổ chức nhân dân chỉ có thể thành công nếu trước hết bảo vệ và
đáp ứng được trên thực tế lợi ích thiết thân của người dân, từ đó kết hài hòa
các lợi ích, gắn chặt quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Việc giáo dục, bồi
dưỡng tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức của con người mới XHCN được
tiến hành đi đôi với bảo đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân; đồng
thời khắc phục tư tưởng coi nhẹ lợi ích tập thể và xã hội, chỉ thấy quyền lợi
mà quên nghĩa vụ công dân hoặc ngược lại.
Câu 7: Phân tích về
phong cách cán bộ: “Trọng dân, gần dân, học dân, hiểu dân, có trách nhiệm với
dân”. Quá trình công tác tại cơ sở, Anh (Chị) đã vận dụng thực hiện quan điểm
trên vào thực tiễn công tác dân vận như thế nào?
Truyền thống lịch sử của dân tộc Việt Nam đã chỉ ra rằng: mọi thắng
lợi của các triều đại phong kiến trong việc bảo vệ, xây dựng đất nước là do
các triều đại này đã “lấy dân làm gốc”, biết dựa vào dân và biết phát huy sức
mạnh của nhân dân.
Triều đại nhà Trần, Trần Quốc Tuấn đã làm rõ hơn
tầm quan trọng của việc “lấy dân làm gốc”. Ông cho rằng cuộc kháng chiến
chống quân Nguyên - Mông muốn thắng lợi thì phải “Vua tôi đồng tâm, anh em
hòa thuận, cả nước góp sức”. Sau khi chiến thắng quân Nguyên - Mông, ông lại
nghĩ đến thực hành chính sách “khoan thư sức dân để làm kế bền gốc rễ, đó là
thượng sách giữ nước”.
Chủ nghĩa Mac-Lê nin chứng
minh một cách khoa khọc vai trò quyết định của nhân dân trong lịch sử. nhân
dân chính là lực lượng SX cơ bản của xã hội. lực lượng đó bao gồm cả lao động
chân tay và lao động trí óc. Nhân dân là lực lượng cơ bản của mọi cuộc cách
mạng, đóng vai trò quyết định thắng lợi của các cuộc cách mạng, là sang tạo
ra mọi giá trị vật chất và tinh thần của nhân loại.
Sức mạnh của đảng bắt
nguồn từ mối lien hệ mật thiết với nhân dân, từ sự đồng tình ủng hộ của nhân
dân. Chỉ ai tắm mính trong nguồn nước tươi mát của nhân dân thì mới chiến
thắng và giữ chính quyền.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thấy và luôn đánh giá cao vai trò, sức mạnh của
nhân dân .
Bác viết:
“Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không có gì
mạnh bằng lực lượng đoàn kết của toàn dân”. Người luôn căn dặn cán bộ đảng viên phải tin tưởng nhân dân, phải biết dựa vào nhân
dân vì “dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong”. “Nước phải lấy dân làm gốc… Gốc có vững thì cây mới bền… Dân chúng
đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng
không nên”.
Trọng dân, gần
dân, thân dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, vì nhân dân quên mình, chăm
lo đến lợi ích của dân, dân chủ với dân, thật sự tôn vinh nhân dân làm chủ xã
hội là một tư tưởng lớn, mang tính văn hóa, nhân văn, nhân đạo cao cả và tính
cách mạng, tính nhân dân sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một người tận tâm
suốt đời với sự nghiệp đấu tranh để giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người.
Tư tưởng trọng
dân được thể hiện không chỉ ở những trang sách lý luận bàn về dân, dân làm
chủ, mà điểm chính yếu là người ta đã tìm thấy trong hoạt động thực tiễn của
Người. Trọng dân, Người đến với dân. Trọng dân, Người gần gũi với các cụ già,
trẻ thơ, thăm hỏi ân cần những người dân lương thiện, lao động cần cù, một
nắng hai sương, an ủi họ, tạo mọi điều kiện để họ có cơ hội sống tốt, sống
khỏe, sống vì mình, vì người, vì cộng đồng của 54 dân tộc anh em.
Hồ Chí Minh
nói nhiều đến lòng tin của người dân với Ðảng và Nhà nước, cụ thể là với
những người lãnh đạo, quản lý. Người cho rằng, muốn được dân tin Ðảng, tin
Nhà nước của mình, thì người lãnh đạo và quản lý, trước hết, phải dân chủ với
dân, tôn trọng dân như tôn trọng chính bản thân mình. Không tôn trọng dân,
không dân chủ với dân sẽ làm khoảng cách giữa Ðảng, Nhà nước với dân ngày một
xa, làm cho lãnh đạo và người dân cách biệt nhau, xa rời nhau.
|
Câu 8: Nghị
quyết Trung ương 8B - khoá VI đã xác định phương thức cơ bản của công tác dân
vận là: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Đ/c đã thực hiện phương
thức này trong thực tiễn công tác vận động nhân dân tại cơ sở như thế nào?
“Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách
vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ”.
Trước nhất là phải tìm mọi
cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rằng: “Việc đó là lợi ích cho họ,
là nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được”.
Điểm thứ hai
là, “bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, cùng với dân đặt kế
hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên tổ chức toàn dân
ra thi hành”.
Điểm thứ ba là, trong lúc thi hành phải theo dõi,
giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.
Điểm thứ tư
là, khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc,
rút kinh nghiệm phê bình khen thưởng”.
Quy trình và
phương thức dân vận nêu trên chính là tiền đề của phương châm “dân biết, dân
bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà Đảng ta khái quát sau này.
Để cho “dân biết” thì phải công khai, minh bạch
các công việc, các kế hoạch, các chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước, các cấp
chính quyền, đoàn thể, cũng như các cơ quan, đơn vị. Dân phải được thông tin
đầy đủ, đa chiều. Dân có quyền đòi hỏi được cung cấp thông tin về mọi mặt.
Để cho “dân bàn” thì các cơ quan, tổ chức và những
người lãnh đạo phải gần dân, “mở lòng” với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý
kiến nhân dân, thể hiện tinh thần ham học hỏi cầu tiến bộ.
Để cho “dân làm”, dân hăng hái tham gia các công
việc của đất nước, của địa phương, tham gia quản lý xã hội, thì phải trên cơ
sở “dân biết” và “dân bàn” thấu đáo. Hồ Chủ tịch thường dẫn ra câu nói nổi
tiếng của nhân dân vùng Vĩnh Linh những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước:
“Dễ trăm lần, không dân cũng chịu; khó vạn lần, dân liệu cũng xong”. Thực tế
lịch sử đất nước mấy nghìn năm qua, nhất là từ ngày Đảng ta ra đời cho đến
nay, trải qua những cuộc chiến tranh vệ quốc ác liệt và đầy gian khổ, hy
sinh, cũng như trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, đã chứng
minh hùng hồn chân lý giản dị mà cao sâu này.
Thực trạng của đất nước hiện nay, tuy đã thu được
nhiều thành quả trong công cuộc đổi mới, nhưng đời sống của đa số nhân dân
còn nhiều khó khăn; nạn tham nhũng còn trầm trọng; trật tự an toàn xã hội
diễn biến phức tạp, rất đáng lo ngại; nhiều chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước còn bị lạm dụng, bị “biến tướng”; cải cách hành chính còn ở mức
thấp về tinh thần làm việc và trình độ nghiệp vụ của cán bộ-công chức, lại
kém hiệu quả; công cuộc hội nhập quốc tế và bảo vệ biên cương còn nhiều thách
thức. Do đó, chủ trương “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải thực
sự trở thành một chủ trương to lớn, một vấn đề to lớn, có tính chất nền tảng
từ trong Cương lĩnh và từ đó phải được thể hiện cụ thể trong các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời được thực thi rộng khắp, có thực
chất, để đạt những hiệu quả rõ rệt, tránh hình thức chủ nghĩa cá nhân.
Câu 9: Phân tích quan điểm “Đại đoàn kết toàn dân
tộc phải dựa trên cơ sở giải quyết hài hoà quan hệ lợi ích giữa các thành
viên trong xã hội.”. Liên hệ việc thực hiện quan điểm này tại đơn vị.
Đại
đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, là sức mạnh nội lực của dân
tộc ta được đúc rút và chứng minh từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ
nước. Từ xưa tới nay, với tư tưởng lấy dân làm gốc, khoan dung, hòa hợp, tinh
thần đoàn kết, yêu nước, vị tha, nhân ái... làm trọng, khối đại đoàn kết toàn
dân tộc đã trở thành ngọn cờ đại nghĩa, tập hợp mọi tầng lớp nhân dân, tạo
nên sức mạnh vô địch để chiến thắng địch họa.
Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước hiện nay,
bài học phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn nguyên giá trị. Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn
đề này, Đảng ta khẳng định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách
mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố có ý nghĩa
quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Và
một trong những phương hướng đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta xác định là:
“xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc,
tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất”. Chính vì thế, trong thời
gian qua, mặc dù tình hình thế giới, khu vực có nhiều thay đổi, diễn
biến phức tạp. Nhân dân ta phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức do
tác động tiêu cực của kinh tế thế giới cũng như khó khăn nội tại của kinh tế
nước ta... Song, bằng bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu, tranh thủ thời cơ,
thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, đạt được những thắng lợi quan trọng
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quốc phòng-an ninh, y tế, giáo dục...
Điều này có tác động tích cực đến việc xây dựng và phát huy sức mạnh của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc. Đánh giá kết quả này, Đảng ta khẳng định: “Khối
đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân với giai
cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục được mở
rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể
nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc; củng cố, mở rộng tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên, tổ chức
nhiều phong trào thi đua, nhiều cuộc vận động có hiệu quả thiết thực...; cùng
Nhà nước chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân,
tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần tích cực vào những thành
tựu của đất nước”.
|
Thứ Bảy, 10 tháng 1, 2015
Đề cương thảo luận môn dân vận trung cấp chính trị trường cán bộ 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét